Lưu ý khi Post bài :
01. Bạn hãy đăng ký Thành viên để Post bài thành công. Bài viết nên ghi rõ xuất xứ, nguồn, Tác giả, sưu tầm, ...
02. Tại trang chủ : hiện tại đã mở 4 mục để thành viên tự Post ! Sắp tới sẽ mở toàn bộ (sẽ có thông báo).
Bài viết tại trang chủ sẽ được kiểm duyệt trong vòng 24h bởi Biên tập viên phụ trách từng chuyên mục !
03. Tại diễn đàn : Thành viên được phép Post tự do.
Liên hệ Giêsu Asia
Ai đang Trực tuyến
Đang có 224 khách và no member đang online
Google Search
-
08 Tháng 11 2013
-
Lượt xem: 690
Cô hồn – linh hồn mồ côi Tháng Bảy âm lịch, người bên lương thường cúng cô hồn. Giáo dân hay xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Vậy hai khái niệm cô hồn và linh hồn mô côi có liên quan gì với nhau không? 1. Khái niệm cô hồn 1.1. Nghĩa của chữ cô và hồn 1.1.1. Cô, có nhiều chữ Hán 孤, 姑, 沽, 泒, 鴣(鸪), 箍, 罛, 蛄, 觙, 辜, 酤, 菇, 咕, 菰, 苽, 觚, 軲. Trong từ cô hồn là chữ 孤, nghĩa là: (dt.) (1) Cha chết sớm, hay không có cha. (2) (cũ) Quan cô (tên chức quan, nằm khoảng giữa chức tam công và lục khanh, gồm thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo); (3) Xưa người diễn vai quan lại trong vỡ kịch. (4) Họ Cô. (đdt.) (5) vua chúa tự xưng: Xưng cô đạo quả. (đt.) (6) Phụ bạc: Cô ân (phụ ơn). (tt.) (8) Đơn độc: Cô sơn (núi trọi), cô thụ (cây trọi). (Pht.) (9) Lẻ loi: Cô lập vô trợ (trơ trọi một mình không ai giúp). (10) Học thức dốt nát hẹp hòi: Cô lậu, (11) Tính tình ngang bướng: Cô tịch (không thể hoà hợp với ai cả). (12) Một mình: Nhất ý cô hành (làm theo ý riêng). 1.1.2. Hồn, có những chữ Hán sau: 魂, 渾(浑), 餛(馄), 琿(珲), trong từ cô hồn là chữ 魂, nghĩa là (dt.) (1) Phần thiêng liêng của con người: Linh hồn. (2) Tinh thần của sự vật: Quốc hồn (Phần thiêng liêng của quốc gia). (3) Tình cảm của con người khi quá xúc động: Tiêu hồn (mất hồn).. 1.1.3. Nghĩa thuật từ cô hồn (孤魂): Hồn người chết lẻ loi, không ai cúng vái. 1.2. Quan niệm về cô hồn 1.2.1.Theo Phật Giáo: Ngày Rằm tháng Bảy (Âm lịch) được gọi là ngày “Báo hiếu cha mẹ” tức lễ Vu Lan và cũng là ngày “Xá tội vong nhân” tức lễ cúng cô hồn. Trong dân gian, nhiều người vẫn nghĩ hai lễ này chỉ là một, nhưng thực ra đây là hai lễ khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của ông Mục Liên:Phật Tổ dạy ông Mục Liên vào giữa tháng Bảy bày trăm món ngũ quả thiết đãi chư tăng thập phương để chung sức cứu mẹ ra khỏi địa ngục đau khổ. Còn tục cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Theo “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh”: Một đêm kia, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường tam bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”. A Nan đem chuyện thưa với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng Diệm Khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. 1.2.2. Theo Đạo Giáo: Rằm tháng Bảy gọi là Tết Trung Nguyên. Tết Trung Nguyên bắt đầu từ thời Bắc Nguỵ (năm 386-534), còn gọi là Tết Quỷ. Đạo Giáo có Tam Quan, tức là Thiên Quan, Địa Quan và Thuỷ Quan, ngày sinh của Tam Quan là Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy và Rằm tháng Mười, ba ngày này gọi là tam nguyên. Rằm tháng Bảy là Trung Nguyên, Địa Quan đến xá tội các giới. Theo truyền thuyết, ngày Rằm tháng Bảy cửa Địa Ngục mở ra, quỷ hồn đều được thả ra. Hồn có chủ thì về nhà, cô hồn thì đi khắp nơi tìm thức ăn, nên trong tháng Bảy người ta cúng cô hồn, để họ không làm hại người ta. 1.2.3. Theo tập tục: Việc cúng cô hồn đã có từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn cúng tế cầu siêu cho tứ sanh[1] đang luân hồi trong lục đạo. Đến đời nhà Tống (960 - 1279), Nho Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo liên kết với nhau. Ngày Xá Tội vong nhân của Phật Giáo, Tết Trung Nguyên của Đạo Giáo và việc thờ kính tổ tiên của Nho Giáo đã kết hợp hoạt động, hình thành tập tục cúng cô hồn tại vùng Đông Á. Như nhiều dân tộc Đông Á, người Việt Nam cũng cho rằng những người chết vì chiến tranh, đánh nhau, bệnh dịch, tàn sát, chết oan, tội lỗi, thiên tai, tai nạn xe cộ..., những người chết như vậy thì “đại miếu bất thu, tiểu miếu bất lưu” (Miếu lớn không nhận, miếu nhỏ không cho ở), hồn không được cúng dưỡng, phải đoạ đày trong địa ngục hay phải lang thang khắp nơi, có khi phá phách, làm hại người sống. Những linh hồn đó được gọi là cô hồn, tức là hồn người chết lẻ loi, không ai cúng vái. Để cõi âm và cõi dương đều được bình an, từ xa xưa người Việt cũng đã có tập tục cúng cô hồn vào tháng Bảy âm lịch, để họ sớm được thoát khỏi Địa Ngục, mà nhân gian cũng không bị cô hồn phá rối. 1.3. Nhận xét. Như vậy, cúng cô hồn là một tập tục thể hiện lòng trắc ẩn, “nhân đạo”: nhằm cứu giúp những linh hồn khốn khổ, nhưng đồng thời cũng có thể là một hình thức “hối lộ”: để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc “vụ lợi”: để được họ “giúp đỡ”. Trong khái niệm cô hồn còn bao gồm một khái niệm khác là oan hồn. Oan hồn là gì? - Oan hồn là hồn người chết oan. Nhưng thế nào là chết oan? - Những người bị ám sát, bị bức tử, bị giết khi chưa kịp sinh ra (thai nhi), chết “bất đắc kỳ tử”... được coi là chết oan ức (theo nghĩa chữ: oan là trái lẽ công bằng). Do quan niệm ở đời có “sinh, lão, bệnh, tử”. Có sinh thì ắt có tử, chết vì già hay do bệnh tật thì là lẽ thông thường, còn những người chết không theo ‘lẽ thông thường’ này thì người ta gọi là chết oan, và oan hồn thường không thể “siêu thoát” hay “đầu thai” được vì nuối tiếc cuộc sống dang dở của mình. Vì thế, việc cúng cô hồn cũng bao gồm việc cúng tế các oan hồn. (Còn tiếp) Lm Stêphanô Huỳnh Trụ